Vay nợ đến hạn
không trả có phải là lừa đảo không?
Do
có quen biết nhau từ trước nên bà N có cho bà Q vay số tiền là 2 tỷ để đáo hạn
ngân hàng. Sau khi đáo hạn xong thì bà Q trả tiền lãi và gốc 2 tỷ đầy đủ cho bà
N. Vì tin tưởng nên sau đó bà N tiếp tục cho bà Q vay số tiền 5 tỷ đồng, hai
bên có làm giấy vay tiền, tuy nhiên vì kinh doanh thua lỗ nên bà Q không có khả
năng trả nợ cho bà N. Nhiều lần bà N yêu cầu bà Q trả nợ nhưng bà Q không chịu
trả số tiền 5 tỷ đã vay bà N mà chỉ hứa là mỗi tháng trả cho bà N số tiền 300.000.000
đồng, nếu công việc thuận lợi sẽ tăng số tiền trả hàng tháng lên 500.000.000 đồng.
Bà N không đồng ý mà yêu cầu bà Q phải trả đủ 5 tỷ cho bà N. Nay bà N muốn kiện bà Q tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có được không?
Đối với câu hỏi
của bà N, xin được tư vấn như sau:
Theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm
2015, nghĩa vụ của người đi vay tài sản là trả đủ tài sản khi đến
hạn. Nếu tài sản là tiền, người vay phải trả đủ số tiền; nếu tài sản là vật,
người vay phải trả lại vật cùng loại, số lượng và chất lượng, trừ khi có thoả
thuận khác. Việc trả nợ đúng hạn là một nghĩa vụ pháp lý. Nếu người vay tiền từ
cá nhân, công ty hoặc tổ chức tín dụng tài chính không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
theo thỏa thuận ban đầu, đây sẽ là hành vi vi phạm pháp luật.
Như
vậy bà Q có vay bà N với số tiền 5 tỷ, đến hạn bà Q phải có nghĩa vụ trả nợ cho
bà N. Nay bà Q không trả nợ cho bà N thì có hai
trường hợp có thể xảy ra:
Trường hợp 1: Bà Q
không trả nợ do không có khả năng chi trả và không có ý định lừa dối hoặc trốn
tránh để chiếm đoạt tài sản, trong trường hợp này sẽ phát sinh tranh chấp dân
sự. Bà N có thể khởi kiện bà Q về việc đòi nợ tại cơ quan Tòa án có thẩm quyền
để giải quyết.
Trường hợp 2: Nếu bà Q có
khả năng trả nợ nhưng cố ý sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc trốn tránh để chiếm
đoạt tài sản, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
và chiếm đoạt tài sản hoặc bà Q dùng các thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin giả, thông tin không đúng sự thật
để bà N tin đó là thật và cho bà Q mượn tiền thì bà Q có thể
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo
quy định tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, hợp đồng vay tài sản là một sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay có trách
nhiệm hoàn trả tài sản cùng loại, đúng số lượng và chất lượng, chỉ phải trả lãi
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Trong trường hợp người vay tiền từ cá nhân hoặc tổ chức tín dụng, khi đến hạn
trả nợ mà người vay không có khả năng hoặc không trả nợ đúng hạn, bên cho vay
có quyền yêu cầu trả tiền lãi theo lãi suất chậm trả được quy định bởi Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hoặc theo quy định của pháp luật. Đây được coi là một
tranh chấp dân sự phát sinh từ thỏa thuận vay tiền giữa hai bên. Người cho vay
cũng có quyền khởi kiện đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu đòi lại
tài sản đã cho vay và các khoản lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật
nếu người vay không hoặc chậm trả nợ theo cam kết thỏa thuận.
Trong
trường hợp khi người vay không còn khả năng trả
nợ, nhưng vẫn cung cấp thông tin gian dối để vay tiền và ý thức rằng không thể trả
nợ và không có ý định trả nợ, thì mới được coi là hành vi lừa đảo. Khi đến hạn
trả nợ theo thỏa thuận đã cam kết, người cho vay yêu cầu hoàn trả lại số tiền
người vay đã vay như đã thỏa thuận, nhưng người vay lại sử dụng các hành vi
gian dối như hứa hẹn, khất lần, quanh co, cung cấp thông tin cá nhân giả, tắt
điện thoại, hoặc thậm chí bỏ trốn khỏi nơi cư trú để trì hoãn việc trả nợ. Hành
vi như vậy có thể có dấu hiệu vi phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản" được quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2017), với mức hình phạt tù cao nhất là 20 năm hoặc án chung
thân.
Trong
trường hợp trên, bà Q vay tiền bà N để làm ăn kinh doanh, nhưng kinh doanh thua
lỗ nên không thể trả nợ như đã cam kết với bà N như ban đầu; bà Q cũng có thiện
chí trả nợ cho bà N hàng tháng và khi vay tiền bà Q không dùng các thủ đoạn
gian dối để tạo niềm tin cho bà N để vay tiền và đến hạn trả nợ bà Q vẫn cam
kết trả nợ cho bà N mà không có dấu hiệu
trốn tránh việc trả nợ. Đây là vụ việc dân sự, do đó bà N có thể khởi kiện bà Q
đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu đòi lại số tiền 5 tỷ đã cho bà Q vay theo
quy định của pháp luật./.
Nhật Nguyễn