Bồi thường thiệt hại khi bị người khác
gây thương tích
Câu hỏi: Chồng tôi năm nay 34 tuổi. Hai vợ chồng tôi có 2 con nhỏ. Cách đây hai
tháng, chồng tôi bị người ta vô cớ đánh vào đầu gây chấn thương sọ não, phải nằm
bệnh viện điều trị. Nay chồng tôi đã được xuất viện, nhưng tình trạng sức khỏe
yếu và hay bị choáng, giám định sức khỏe bị thương tích 32%. Cho tôi hỏi, nếu
gia đình họ không chịu thỏa thuận với gia đình tôi, vụ việc sẽ được đưa ra Tòa
án thì khi đó, gia đình tôi có được đền bù chi phí điều trị và tổn thất về tinh
thần không? phần tổn thất về sức khỏe của chồng tôi có được đền bù không?
Trả lời: Dựa trên những thông tin bạn cung cấp và căn cứ vào các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành, xin trả lời như sau:
Thứ nhất, Về trách nhiệm hình sự.
Căn cứ vào nội dung bạn trao đổi thì hành vi
của người đã vô cớ đánh vào đầu chồng bạn gây chấn thương sọ não phải nằm bệnh
viện điều trị đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác” được quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm
2015; và trường hợp này không thuộc một trong các trường hợp chỉ được khởi tố vụ
án theo yêu cầu của người bị hại được quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015. Do đó, người đã gây thương tích cho chồng bạn sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác” không phục thuộc vào việc gia đình bạn có yêu cầu khởi tố vụ án
hay không.
Thứ hai, Về trách nhiệm dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”. Do vậy, người đã gây thương tích cho chồng bạn phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm cả thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại
và tổn thất về tinh thần.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 585 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại thì “Thiệt hại thực tế phải
được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường,
hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”.
Trong trường hợp gia đình bạn và người đã gây
thương tích cho chồng bạn không thỏa thuận được việc bồi thường thiệt hại thì gia
đình bạn làm đơn khởi kiện gởi Tòa án nơi người đó đang cư trú yêu cầu giải quyết
vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định tại Điều 590 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 7 của Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06
tháng 09 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng để giải quyết vụ việc của chồng bạn.
“Điều 590. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
1. Thiệt hại
do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí
hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị
giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của
người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu
nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí
hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần
phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho
việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại
khác do luật quy định.
2. Người
chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khoẻ của người khác bị xâm phạm
phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền
khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp
tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức
tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương
cơ sở do Nhà nước quy định.
Điều 7. Về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự
1. Chi phí hợp
lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm
sút của người bị thiệt hại bao gồm:
a) Chi phí khám
bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị
thiệt hại; thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đến cơ sở khám chữa bệnh và
trở về nơi ở;
b) Chi phí bồi
dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu
vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số
ngày trong hồ sơ bệnh án;
c) Chi phí phục
hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút là các chi phí cho việc phục hồi,
hỗ trợ, thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại.
2. Thu nhập thực
tế bị mất hoặc bị giảm
sút của người bị thiệt hại được xác định như sau:
a) Trường hợp
người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương, tiền công thì được xác định
theo mức tiền lương, tiền công của người bị thiệt hại trong khoảng thời gian tiền
lương, tiền công bị mất hoặc bị giảm sút;
b) Trường hợp
người bị thiệt hại có thu nhập không ổn định từ tiền lương, tiền công được xác
định căn cứ vào mức tiền lương, tiền công trung bình của 03 tháng liền kề trước
thời điểm thiệt hại xảy ra. Trường hợp không xác định được 03 tháng lương liền
kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra thì căn cứ vào thu nhập trung bình của lao
động cùng loại tại địa phương trong khoảng thời gian thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Nếu
không xác định được thu nhập
trung bình của lao động cùng loại tại địa phương thì thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút được bồi thường là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị
thiệt hại cư trú cho 01 ngày bị thiệt hại.
Ngày lương tối
thiểu vùng được xác định là 01 tháng lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định
chia cho 26 ngày.
3. Chi phí hợp
lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại theo
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 590 của Bộ luật Dân sự được
xác định như sau:
a) Chi phí hợp lý cho người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại,
tiền thuê nhà trọ theo giá trung
bình ở địa phương nơi người bị thiệt hại điều trị (nếu có);
b) Thu nhập thực
tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được
xác định theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
c) Trường hợp
người bị thiệt hại mất khả năng lao động và phải có người thường xuyên chăm sóc
thì chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại nơi người bị
thiệt hại cư trú cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.”
Bạn có thể kham khảo nội dung và căn cứ vào
các quy định nêu trên để giải quyết trường hợp của gia đình mình.
Hoàng Sơn - Trung
tâm TGPL nhà nước