Góp ý dự thảo Quyết định ban hành Quy định mức độ khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với từng loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh
Góp ý dự thảo
Quyết định ban hành Quy định mức độ khôi
phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với từng loại vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh
Vừa qua, theo đề nghị của Sở Tài nguyên
và Môi trường tại Công văn số 1521/STNMT-TTr ngày 13/4/2023 về việc góp ý dự thảo Quyết định ban hành Quy định mức độ khôi phục lại tình trạng ban
đầu của đất trước khi vi phạm đối với từng loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai trên địa bàn tỉnh Bình Thuận; qua nghiên cứu hồ sơ dự thảo, Sở Tư pháp đã có Công văn số 870/STP-NV1
ngày 24/5/2023 góp ý một số vấn đề sau:
- Đối với nội
dung định nghĩa về tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, Sở Tư pháp nhận
thấy nội dung khoản 1 Điều 3 chưa bao quát hết các yếu tố, đặc điểm liên quan đến
tình trạng ban đầu của đất, như về loại đất, mục đích sử dụng đất (theo quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt)... Ngoài ra, cần xem xét tính hợp lý
khi xác định tình trạng ban đầu của đất là “tình trạng xây dựng công trình trên
đất”; “tình trạng gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người
khác” vì đây là các tình trạng khi đã có hành vi vi phạm hành chính về đất đai.
Vì vậy, đề nghị
cơ quan soạn thảo rà soát, giải trình rõ cơ sở pháp lý (hoặc cơ sở khoa học và
thực tiễn) để đưa ra định nghĩa tại khoản 1 Điều 3, bảo đảm nội dung định nghĩa
là có cơ sở, chính xác, rõ ràng, đầy đủ.
- Đối với các
căn cứ để xác định tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm: Đề nghị nghiên
cứu thêm Điều 11 Luật Đất đai năm 2013 (Căn cứ để xác định loại đất) để bổ sung
quy định cho đầy đủ, chặt chẽ, nhất là các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất
làm căn cứ xác định loại đất.
Ngoài ra, đề nghị
nêu rõ căn cứ pháp lý để quy định trách nhiệm: “Ủy ban nhân dân cấp xã chịu
trách nhiệm xác định tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm”. Trường hợp
việc quy định trách nhiệm nêu trên của Ủy ban nhân dân cấp xã là cần thiết, có
căn cứ pháp lý thì cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, quy định rõ cách thức Ủy
ban nhân dân cấp xã xác nhận (bằng hình thức gì, tại thời điểm nào trong quy
trình xử phạt vi phạm hành chính?).
- Về mức độ, biện
pháp khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất: Tại khoản 1 Điều 4 dự thảo quy định
có 03 mức độ khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất, gồm: Khôi phục lại tình
trạng ban đầu của đất; khôi phục lại tình trạng của đất để giữ mục đích sử dụng
đất; giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất như tại thời điểm phát hiện vi phạm. Đồng
thời, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 quy định các biện pháp thực hiện tương ứng
đối với 02 mức độ: Khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất; khôi phục lại tình
trạng của đất để giữ mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, Sở Tư pháp nhận thấy, dự
thảo quy định còn rất chung, chưa thể hiện rõ được sự khác nhau giữa hai mức độ
nêu trên và về cơ bản thì 02 mức độ trên có sự trùng lặp nội dung, biện pháp thực
hiện.
Vì vậy, đề nghị
cơ quan soạn thảo nghiên cứu kỹ để đề xuất quy định các mức độ khôi phục lại
tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm bảo đảm tính hợp lý, cụ thể, rõ
ràng hơn và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, gắn với các hành vi
vi phạm được quy định từ Điều 9 đến Điều 16 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
19/11/2019 (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày
06/01/2022 của Chính phủ).
- Về mức độ khôi
phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với từng loại vi phạm
(từ Điều 5 - Điều 8 dự thảo): Trên cơ sở quy định rõ các nhóm mức độ khôi phục
lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, đối với từng hành vi vi phạm
cần quy định cụ thể, chi tiết mức độ, biện pháp phải thực hiện việc khôi phục để
áp dụng thuận lợi và thống nhất; không quy định chung chung như dự thảo.
- Đối với các
trường hợp gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác tại
các điểm a, b, c khoản 2 Điều 8 dự thảo; nếu không quy định mức độ khôi phục
khác nhau tương ứng với từng trường hợp thì đề nghị không cần quy định lặp lại
như dự thảo vì các trường hợp này đã được quy định cụ thể tại Điều 16 Nghị định
số 91/2019/NĐ-CP. 1.6.
- Đề nghị cơ
quan soạn thảo rà soát, quy định đầy đủ, rõ ràng, phù hợp trách nhiệm của từng
cơ quan có liên quan; đồng thời sử dụng từ ngữ phù hợp văn phong của văn bản
quy phạm pháp luật, không sử dụng các từ ngữ mang tính chất chỉ đạo hoặc định
tính như “tốt”, “tăng cường”… tại Điều 9 dự thảo.
- Ngoài ra, Sở Tư pháp đã góp ý một số sai sót về ngôn ngữ, kỹ
thuật soạn thảo văn bản để cơ quan soạn thảo nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo trước
khi gửi đến Sở Tư pháp thẩm định./.
Tuấn Anh