Những điểm mới của Thông tư số 06/2020/TT-BTP ngày 17/12/2020 của Bộ Tư pháp
Những điểm mới của Thông tư số 06/2020/TT-BTP
ngày 17/12/2020 của Bộ Tư pháp
Vào
ngày 17/12/2020, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 06/2020/TT-BTP về
việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20 tháng
6 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp
thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện
pháp bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc
gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01 tháng 02 năm 2021.
Thông tư số 06/2020/TT-BTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
08/2018/TT-BTP với một vài nội dung chính như sau:
Bổ sung Điều 5a
vào sau Điều 5:
“Điều 5a. Đăng ký hợp đồng
1. Trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu
cầu đăng ký nhằm công khai hoá thông tin thì Trung tâm Đăng ký thực hiện việc
đăng ký hợp đồng, đăng ký thay đổi nội dung hợp đồng đã đăng ký, sửa chữa sai
sót, xoá đăng ký đối với các hợp đồng sau đây (trừ hợp đồng thuê mua tàu bay
dân dụng theo quy định của pháp luật về hàng không, hợp đồng cho thuê tài chính
đối với tàu bay theo quy định của pháp luật về cho thuê tài chính, hợp đồng
thuê mua tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng hải, hợp đồng cho thuê
tài chính đối với tàu biển mà không thuộc trường hợp nêu tại khoản 3 Điều 39 của
Thông tư số 30/2015/TT-NHNN ngày 25 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định việc cấp giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức
tín dụng phi ngân hàng, hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai, nhà ở):
a) Hợp đồng thuê tài sản có thời hạn từ
một năm trở lên hoặc hợp đồng có thời hạn thuê tài sản dưới một năm, nhưng các
bên giao kết hợp đồng thỏa thuận về việc gia hạn và tổng thời hạn thuê (bao gồm
cả thời hạn gia hạn) từ một năm trở lên; hợp đồng ký gửi hàng hoá;
b) Hợp đồng cho thuê tài chính theo
quy định của pháp luật về cho thuê tài chính;
c) Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ,
khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác bao gồm quyền đòi nợ, khoản phải
thu, quyền yêu cầu thanh toán khác hiện có hoặc hình thành trong tương lai.
2. Việc đăng ký nêu tại khoản 1 Điều
này không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Người yêu cầu đăng ký chịu trách
nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp và tính chính xác của các thông tin kê
khai trong Phiếu yêu cầu đăng ký.”
Như
vậy, theo quy định mới, trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu đăng ký nhằm
công khai hoá thông tin thì Trung tâm Đăng ký thực hiện việc đăng ký hợp đồng,
đăng ký thay đổi nội dung hợp đồng đã đăng ký, sửa chữa sai sót, xoá đăng ký đối
với các hợp đồng như: Hợp đồng thuê tài sản có thời hạn từ một năm trở lên hoặc
hợp đồng có thời hạn thuê tài sản dưới một năm, nhưng các bên giao kết hợp đồng
thỏa thuận về việc gia hạn và tổng thời hạn thuê (bao gồm cả thời hạn gia hạn)
từ một năm trở lên; hợp đồng ký gửi hàng hoá; Hợp đồng cho thuê tài chính theo
quy định của pháp luật về cho thuê tài chính; Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ,
khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác bao gồm quyền đòi nợ, khoản phải
thu, quyền yêu cầu thanh toán khác hiện có hoặc hình thành trong tương lai và
việc đăng ký này sẽ không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Người yêu cầu
đăng ký chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp và tính chính xác của
các thông tin kê khai trong Phiếu yêu cầu đăng ký.
Ngoài
ra, Thông Tư số 06/2020/TT-BTP còn bổ sung thêm điểm mới đáng chú ý đó là Đăng
ký trực tuyến trong trường hợp không yêu cầu cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về
biện pháp bảo đảm:
“Điều 7a. Đăng ký trực tuyến trong trường hợp không yêu cầu cấp mã số sử
dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm
1. Cá nhân, pháp nhân nếu không yêu cầu
cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm nhưng có yêu cầu đăng ký
trực tuyến thì có thể khởi tạo một tài khoản để thực hiện đăng ký, yêu cầu cung
cấp thông tin.
Cá nhân, pháp nhân sử dụng tài khoản
đã khởi tạo để thực hiện việc đăng ký biện pháp bảo đảm, hợp đồng do chính mình
xác lập.
2. Khi khởi tạo tài khoản đăng ký trực
tuyến trên hệ thống đăng ký trực tuyến của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm
thuộc Bộ Tư pháp, cá nhân, pháp nhân kê khai đầy đủ thông tin và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung kê khai đồng thời đính kèm lên hệ thống bản quét
(scan) từ bản gốc giấy tờ xác định tư cách pháp lý (Chứng minh nhân dân hoặc thẻ
Căn cước công dân hoặc giấy chứng minh được cấp theo quy định của pháp luật về
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
viên và viên chức quốc phòng đối với cá nhân là công dân Việt Nam; Hộ chiếu đối
với cá nhân là người nước ngoài; Thẻ thường trú đối với cá nhân là người không
quốc tịch cư trú tại Việt Nam; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với
pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh,
Giấy chứng nhận đăng ký địa điểm kinh doanh, Quyết định thành lập đối với tổ chức
khác) của người khởi tạo tài khoản. Bản quét (scan) sử dụng định dạng tệp dữ liệu
theo chuẩn kỹ thuật Portable Document Format (PDF).
3. Khi thực hiện đăng ký trực tuyến,
cá nhân, pháp nhân thực hiện việc kê khai các nội dung trên Biểu mẫu điện tử
tương tác theo hướng dẫn tại Thông tư này.
4. Cá nhân, pháp nhân phải thanh toán
phí đăng ký, cung cấp thông tin trước khi xác nhận yêu cầu đăng ký, cung cấp
thông tin trên hệ thống đăng ký trực tuyến.
5. Cá nhân, pháp nhân đã được Cục Đăng
ký quốc gia giao dịch bảo đảm cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo
đảm thì không được khởi tạo tài khoản quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp cá nhân, pháp nhân đã khởi
tạo tài khoản theo quy định tại khoản 1 Điều này mà có yêu cầu cấp mã số sử dụng
cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm thì gửi hồ sơ đề nghị Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm cấp theo quy định. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thực
hiện đóng tài khoản này trước khi cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp
bảo đảm.”
Theo quy định của pháp luật định nghĩa về mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về
biện pháp bảo đảm thì “Mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm là ký
hiệu dãy số và tài khoản đăng ký trực tuyến (gồm tên đăng nhập và mật khẩu) cấp
cho cá nhân, pháp nhân để đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm (được quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định
102/2017/NÐ-CP)”.
Như
vậy, mỗi cá nhân, pháp nhân sẽ được Cục
Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp cấp một (01) mã số sử dụng
cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm để thực hiện việc đăng ký đối với biện pháp
bảo đảm, hợp đồng do chính cá nhân, pháp nhân đó xác lập. Nếu trong trường hợp
cá nhân, pháp nhân không yêu cầu cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo
đảm nhưng có yêu cầu đăng ký trực tuyến thì có thể khởi tạo một tài khoản để thực
hiện đăng ký, yêu cầu cung cấp thông tin và sử dụng tài khoản đã khởi tạo để thực
hiện việc đăng ký biện pháp bảo đảm, hợp đồng do chính mình xác lập.
Khả Thịnh