Sở Tư pháp trả lời Đơn cho công dân liên quan đến pháp luật về thừa kế
Sở Tư pháp trả lời Đơn cho công dân liên
quan đến pháp luật về thừa kế
Sở Tư pháp nhận được Đơn xem xét về việc giải thích pháp luật về thừa
kế của công dân. Qua nghiên cứu nội dung Đơn, các tài liệu gửi kèm và
các văn bản pháp luật có liên quan, Sở Tư pháp có ý kiến như sau:
1. Quy định pháp luật về thời hiệu yêu
cầu chia thừa kế
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS
2015): “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp
Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác
định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
Theo quy định tại Điều 623 BLDS 2015 về thời
hiệu thừa kế:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản
thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người
đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không
có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu
xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế.”
- Theo nội dung phần I của Văn bản số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của
Tòa án nhân dân Tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, hướng dẫn về dân sự,
có nội dung hướng dẫn như sau:
+ Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời
hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định
tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi
kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
+ Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở
thừa kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996
đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa
kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày
01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường
hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
2. Từ các căn cứ quy định pháp luật nêu trên, Bà A chết năm 1981, Ông B
chết năm 1991, đến nay đã quá thời hiệu 30 năm để yêu cầu chia thừa kế. Do đó,
di sản sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó là Ông C (con ruột) và
Bà D (con dâu). Tuy nhiên, Ông C cũng đã chết do đó quyền sử dụng đất này sẽ là
di sản của Ông C và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của Ông C sẽ được
hưởng thừa kế là Bà D và các con theo quy định của Bộ Luật dân sự./.
Phương Hà