Quy định của pháp luật đối với người được hưởng án treo
Án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người
phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội
và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt
tù.
Theo đó, Điều 65 Bộ
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về án treo:
Khi xử
phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa
án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và
thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi
hành án hình sự.
Trong
thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức
nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám
sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ
chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Trong
thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo
quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết
định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp
hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo
quy định.
Nghĩa vụ của người
được hưởng án treo: Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án
theo quy định; thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật,
nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp
hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì
lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận; chịu sự giám
sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát,
giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án
hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc; phải có mặt theo yêu cầu của Ủy
ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu; hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị
quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.
Người được hưởng án
treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép
theo quy định, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về
cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số
thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử
thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của
bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
Người được hưởng án
treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy
ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp
không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn
bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình
báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu
trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm
trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban
nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu
có liên quan.
Trường hợp người được
hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm, đồng thời
yêu cầu người được hưởng án treo phải có mặt trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày
lập biên bản vi phạm. Hết thời hạn này mà người được hưởng án treo vẫn không có
mặt thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình
sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm và đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi
người được hưởng án treo cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được hưởng án
treo làm việc quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án
đã cho hưởng án treo.
Trong thời gian thử
thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định nhưng sau khi
kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi
phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa
án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản
án đã cho hưởng án treo.
UBND cấp xã được giao
giám sát, giáo dục người được hưởng án treo có nhiệm vụ, quyền hạn: lập hồ sơ,
tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; bàn giao hồ sơ cho cơ quan
thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định; yêu cầu người được hưởng án
treo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi
người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật; biểu dương người được hưởng án treo có
nhiều tiến bộ hoặc lập công; giải quyết cho người được hưởng án treo được vắng
mặt ở nơi cư trú theo quy định của Luật này và pháp luật về cư trú; phối hợp
với các tổ chức chính trị – xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người được
hưởng án treo làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó; báo cáo
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Tòa án cùng cấp xem
xét, quyết định việc rút ngắn thời gian thử thách; báo cáo cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người
được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã
cho hưởng án treo theo quy định; báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp huyện khi người được hưởng án treo bỏ trốn. Hằng tháng nhận xét bằng văn
bản về quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo và lưu hồ sơ giám
sát, giáo dục.
Công an cấp xã có
nhiệm vụ tham mưu, trực tiếp giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trên đây.
Cơ quan, tổ chức có
liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội
trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Gia đình người được
hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục và thông
báo kết quả chấp hành án của người được hưởng án treo cho Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; phải có mặt tại cuộc họp kiểm
điểm người được hưởng án treo theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị
quân đội được giao giám sát, giáo dục./.
Hoàng Sơn – Trung tâm TGPL Nhà nước