Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực hiện Luật Tố tụng hành chính năm 2015 liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy ban nhân dân
Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực hiện Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
và Ủy ban nhân dân
Thực hiện Công văn số 2997/BTP-TCTHADS ngày 14/7/2023
của Bộ Tư pháp; ngày 15/8/2023 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã ban hành Báo
cáo số 184/BC-UBND báo cáo tổng kết Luật Tố tụng hành chính năm 2015 liên quan đến
trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Ủy ban nhân dân và tổng kết Chỉ thị
số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án
hành chính cũng
còn nhiều khó khăn, vướng mắc:
Công tác theo
dõi thi hành án hành chính mặc dù được quan tâm, tăng cường thực hiện; các cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án đã có sự quan tâm, cố gắng nhưng kết quả
các bản án hành chính được thi hành xong trong thời gian qua vẫn còn thấp, có vụ
việc tồn đọng kéo dài nhiều năm. Nội dung các vụ việc phải thi hành khá phức tạp
vì liên quan đến chính sách về đất đai như: Thu hồi đất, giải tỏa, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư…, thủ tục giải quyết phải qua nhiều bước và liên quan đến
nhiều cơ quan, ban, ngành nên thời gian thi hành án thường phải kéo dài.
Việc theo dõi án hành chính là công việc khó, phức tạp,
đội ngũ cán bộ, chấp hành viên phụ trách công tác thi hành án hành chính chưa
có nhiều kinh nghiệm dẫn đến công tác tham mưu đôi lúc chưa kịp thời, hiệu quả.
Mặc dù vẫn còn nhiều bản án hành chính chậm được thi hành, nhưng hiện nay chưa
có trường hợp cụ thể nào cơ quan thi hành án dân sự đề xuất, kiến nghị người có
thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành
án; chưa có trường hợp nào xử phạt hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính đối với người phải thi hành án chậm thi hành án hành chính
theo quy định.
Nguyên nhân của những bất cập nêu trên:
(1) Một số quy định của Luật Tố tụng hành chính năm
2015 quy định chưa cụ thể, còn mang tính nguyên tắc, khó khăn trong áp dụng.
Các cơ quan thi hành án dân sự hiện nay quá tải về công việc, chưa có phòng hoặc
bộ phận chuyên môn thực hiện công tác theo dõi thi hành án hành chính. (2) Trình
độ, năng lực của một số cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự đáp ứng yêu cầu
trong tình hình hiện nay. Ý thức, tinh thần trách nhiệm trong công tác thi hành
án hành chính của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa cao;
chưa thật sự quan tâm, còn lúng túng, thiếu tập trung, kiên quyết trong chỉ đạo
tổ chức thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật thuộc trách nhiệm phải thi
hành. Sự phối hợp giữa các phòng, ban cấp huyện trong tham mưu và giữa Ủy ban
nhân dân cấp huyện với các sở, ngành chức năng của tỉnh để tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành án một số bản án hành chính chưa kịp
thời, thường xuyên. (3) Hầu hết các vụ án hành chính, người phải thi hành án là
Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp nên cơ quan thi hành án
nói chung và chấp hành viên trực tiếp theo dõi thi hành án hành chính nói riêng
còn tâm lý nể nang, chưa cương quyết trong việc đôn đốc thi hành án hoặc kiến
nghị xử lý trách nhiệm đối với việc chậm thi hành án, không chấp hành, chấp
hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án. Việc chuyển giao bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính cho cơ quan thi hành án dân sự để theo dõi
có trường hợp còn chưa kịp thời theo đúng quy định; trong khi đây là cơ sở quan
trọng, phát sinh trách nhiệm theo dõi thi hành án hành chính của các cơ quan
thi hành án dân sự.
Trên cơ sở kết quả đánh
giá kết quả thực hiện, nhất là về những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, Ủy
ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã đề xuất định hướng sửa đổi, bổ sung một số quy
định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan nhằm
nâng cao hiệu quả thi hành, cụ thể như sau:
(1) Quy định về quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định hành chính bị kiện, hành vi hành chính bị kiện tại Điều 3 Luật
Tố tụng hành chính: Bổ sung khái niệm quyết định hành chính, hành vi hành chính
theo hướng có loại bỏ các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy
nhiệm thực hiện; bổ sung quy định theo hướng xác định yêu cầu bồi thường thiệt
hại trong vụ án hành chính là yêu cầu dân sự trong vụ án hành chính, người yêu
cầu là nguyên đơn dân sự, người bị yêu cầu là bị đơn dân sự. (2) Về thẩm quyền
của Tòa án: Sửa đổi theo hướng xác định thẩm quyền giải quyết các vụ án hành
chính liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân
dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân cấp huyện. (3) Bổ sung quy định kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đối
với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào quy định của Điều 59 Luật Tố tụng
hành chính. (4) Sửa đổi khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính theo hướng cho phép
ủy quyền đến người đứng đầu cơ quan chuyên môn trực thuộc. Sửa đổi khoản 5 Điều
60 Luật Tố tụng hành chính theo hướng chỉ cấm việc ủy quyền lại đối với người bị
kiện, không cấm đối với các chủ thể tham gia tố tụng khác, trừ trường hợp người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định
hành chính, hành vi hành chính liên quan đến đối tượng bị kiện trong vụ án và cần
được xem xét, đánh giá trong cùng vụ án. (5) Bổ sung khoản 4 Điều 163 Luật Tố tụng
hành chính trường hợp chưa ấn định được thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa
thì Tòa án thông báo sau, tuy nhiên không được vượt quá thời hạn được quy định
tại khoản 1 Điều này. (6) Bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 177 Luật Tố tụng
hành chính theo hướng: “Việc đặt câu hỏi
phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lặp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để
xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng. Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp không đặt câu hỏi đối với người mà mình bảo vệ”. (7) Sửa
đổi khoản 1 Điều 312 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thời hạn người
được thi hành án đề nghị Tòa án ra quyết định buộc thi hành án hành chính trong
thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 311
(trừ trường hợp trở ngại khách quan) cho phù hợp thực tế vì thời hạn trên là
quá ít dẫn đến có vụ việc người dân không nắm rõ nên không yêu cầu đúng hạn. (8)
Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm nghiên cứu, tham mưu sửa đổi, bổ sung Nghị định số
71/2016/NĐ-CP: khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định khi nhận được
Quyết định buộc thi hành án hành chính, trong thời hạn 03 ngày làm việc chấp
hành viên phải làm việc với người phải thi hành án để đôn đốc thi hành án; tuy
nhiên, trên thực tế người phải thi hành án chủ yếu là Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các cấp và lịch công tác thường được sắp xếp trước nên khó đảm bảo làm việc
đúng thời hạn. Quy định xử phạt theo Nghị định số 71/2016/NĐ-CP là chưa rõ,
cũng chưa cụ thể để áp dụng; việc hiểu như thế nào là cố tình trì hoãn, không chấp
hành… để kiến nghị xem xét xử lý trách nhiệm người đứng đầu cũng chưa rõ nên
khó kiến nghị xử lý.
Phương Đặng