Tình hình tổ chức và hoạt động Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Bình Thuận
Tình hình tổ chức và hoạt động Thừa phát lại trên
địa bàn tỉnh Bình Thuận
Thực hiện Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Sở Tư pháp đã tham mưu
UBND tỉnh Quyết định số 817/QĐ-UBND ngày 07/4/2020 về việc ban hành Kế hoạch
triển khai thực hiện Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ
trên địa bàn tỉnh và Quyết định số 1015/QĐ-UBND ngày 05/5/2020 phê duyệt “Đề án
phát triển Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Bình Thuận giai đoạn năm
2020-2025”. Theo Đề án của UBND tỉnh, đến năm 2025
phấn đấu phát triển thành lập 12 Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn ỉnh, tại
mỗi huyện thành lập 01 Văn phòng, thị xã La Gi và thành phố Phan Thiết thành lập
02 Văn phòng.
Đến thời điểm hiện nay, toàn
tỉnh đã có 06 Văn phòng Thừa phát lại thành lập hoạt động (đạt 50% so với kế hoạch
phát triển các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh giai đoạn năm 2020 - 2025); tại thị xã La Gi có 02 Văn phòng (VPTPL La
Gi và VPTPL Miền Nam); tại thành phố Phan Thiết có 02 Văn phòng (VPTPL Phan
Thiết và VPTPL Bình
Thuận); tại huyện Đức
Linh có 01 Văn phòng (VPTPL Đức Linh) và huyện Hàm Thuận Nam có 01 Văn phòng
(VPTPL Nam Phan Thiết). Đội ngũ Thừa phát lại và các Văn
phòng Thừa phát lại được củng cố, kiện toàn và chất lượng cung cấp dịch vụ công dần được
nâng lên. Qua đó, góp phần tích cực
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên
địa bàn tỉnh, giảm
bớt áp lực công việc, chia sẻ trách nhiệm, công việc với Nhà nước, bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của người dân và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan
tư pháp; từ đó khẳng định tính đúng đắn
của chủ trương xã hội hóa hoạt động Thừa phát lại.
Từ khi thành lập đến nay,
hoạt động Thừa phát lại chủ yếu tập trung ở 02 lĩnh vực là lập vi bằng và tống
đạt văn bản; hoạt động xác minh thi hành án và thụ lý tổ
chức thi hành án chưa có hồ sơ thực hiện. Nội dung vi bằng chủ yếu để ghi nhận
sự việc, hành vi như: giao nhận tiền, giao nhận thông báo, ghi nhận hiện trạng
tài sản, ghi nhận buổi làm việc giữa các bên,… và thực hiện đăng ký tại Sở Tư
pháp theo quy định. Từ ngày 01/10/2022 đến ngày 31/7/2023, các Văn phòng Thừa phát lại đã lập 1.494 vi bằng, tống đạt
8.374
văn bản. Tổng doanh thu đạt 4.470.462.500 đồng, trong đó: Doanh thu từ việc lập vi bằng
là 3.863.230.500 đồng, doanh thu từ việc tống đạt là 607.232.000 đồng.
Bên cạnh những kết
quả đạt được, trong quá trình tổ chức và hoạt động Thừa phát lại vẫn còn một số
hạn chế, khó khăn, vướng mắc:
- Thứ nhất, về việc đăng ký vi bằng: Hiện nay, Nghị định 08/2020/NĐ-CP không còn quy định Sở
Tư pháp có quyền từ chối, do đó tất cả vi bằng được tiếp nhận sẽ được vào sổ
đăng ký vi bằng. Trong khi thực tế vẫn có nhiều vi bằng được lập chưa đúng thẩm
quyền, phạm vi theo quy định tại Điều 36, Điều 37 và hình thức, nội dung theo
quy định tại Điều 40 Nghị định 08/2020/NĐ-CP nhưng vẫn phải vào sổ đăng ký vi bằng
vì không có quy định cho phép từ chối đăng ký vào sổ.
Theo quy định tại Điều 30 Thông tư số
05/2020/TT-BTP thì trường hợp phát hiện vi bằng, tài liệu chứng minh vi phạm
quy định của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP thì Sở Tư pháp có quyền thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Thực tế, Vi bằng được
tiếp nhận và vào sổ đăng ký trong thời gian 02 ngày làm việc, do vậy ngay khi
phát hiện có hành vi vi phạm nhưng Sở Tư pháp không thể thành lập đoàn thanh
tra, kiểm tra thường xuyên để thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính đối
với những Vi bằng lập chưa đúng quy định. Hơn nữa, trong thời gian tới, khi triển
khai thực hiện Luật Thanh tra mới, Sở Tư pháp không còn chức năng thanh tra chuyên ngành. Theo đó, quy định tại Điều
30 Thông tư số 05/2020/TT-BTP sẽ không còn phù hợp và Sở Tư pháp sẽ không có biện
pháp, chế tài để kịp thời chấn chỉnh sai phạm.
- Thứ hai, về tống đạt:
Việc chuyển giao giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho Thừa
phát lại tống đạt tại địa phương còn ít,
không đồng bộ, số lượng
chuyển giao là rất ít. Số lượng văn bản tống đạt được chuyển giao còn hạn
chế, thấp hơn nhiều so với số vụ việc thụ lý hàng năm. Đồng thời, theo báo cáo của TAND
tỉnh thì kinh phí của Tòa án các cấp phân khai cho việc tống đạt còn rất ít,
chưa phù hợp với số lượng văn bản cần tống đạt của toàn ngành Tòa án tại địa
phương.
Nguyên nhân chủ yếu do khung mức phí chi cho việc tống đạt văn bản theo Nghị
định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ, tối thiểu là 65.000 đồng/việc và tối đa là 130.000 đồng/việc, trừ
trường hợp tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu ngoài địa bàn cấp tỉnh hoặc ở vùng
đảo, quần đảo ngoài địa bàn cấp huyện nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở
thì Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Thi hành án dân sự thỏa thuận với
Văn phòng Thừa phát lại về chi phí tống đạt… Trong khi để tổ chức tống đạt được, các Văn
phòng Thừa phát lại cần phải có một bộ máy các cán bộ nghiệp vụ tương đối nhiều
(phải có trình độ Trung cấp luật trở lên), chi phí rất lớn, nên nhiều Văn phòng
đã từ chối ký hợp đồng tống đạt với các TAND, Viện KSND.
- Thứ ba, về nhận thức:
Nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền, cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động và nhân dân về ý nghĩa, vai trò, tầm quan
trọng của hoạt động Thừa phát lại trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian
qua, Sở Tư pháp cũng đã phối hợp với các cơ quan tại địa phương thực hiện tuyên
truyền, phổ biến, truyền thông về hoạt động Thừa phát lại bằng nhiều hình thức khác nhau; trong đó, tập trung tuyên truyền,
phổ biến chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Thừa phát lại, các công việc Thừa
phát lại được làm theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP; giá trị
pháp lý của vi bằng theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định số
08/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, hoạt động Thừa phát lại cũng còn khá mới mẻ đối với
người dân địa phương. Hầu hết người dân tìm đến Thừa phát lại chỉ để yêu cầu lập
vi bằng tạo nguồn chứng cứ cho các
giao dịch mà họ tham gia; các hoạt động khác của Thừa phát lại chưa được người
dân thực sự hiểu rõ, nhất là hoạt động xác minh thi hành án và thụ lý tổ chức
thi hành án.
- Thứ tư, về điều
kiện lưu trữ vi bằng: Theo khoản 3 Điều 39 Nghị định 08/2020/NĐ-CP quy định “Vi bằng phải
được gửi cho người yêu cầu và được lưu trữ tại Văn phòng Thừa phát lại theo quy
định của pháp luật về lưu trữ như đối với văn bản công chứng”. Như vậy, Vi bằng phải được lưu giữ ít nhất 20 năm tại
trụ sở Văn phòng Thừa phát lại. Tương tự, Sở Tư pháp cũng phải lưu trữ vi bằng
ít nhất 20 năm, trong khi đó Sở Tư pháp là cơ quan tiếp nhận và đăng ký các vi
bằng từ tất cả các Văn phòng Thừa phát lại trên toàn tỉnh, do đó số lượng vi bằng
lưu trữ tại Sở Tư pháp sẽ là rất lớn, vì vậy việc lưu trữ vi bằng đòi hỏi phải
có kho lưu trữ diện tích lớn.
Tuy nhiên, trụ sở
làm việc của Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận tương đối nhỏ, do đó diện tích để bố
trí làm kho lưu trữ cũng hạn chế, dùng lưu trữ chung nhiều hồ sơ của nhiều lĩnh
vực khác nhau. Hơn nữa, các Văn phòng Thừa phát lại trình bày vi bằng còn chưa thống nhất,
cách diễn đạt, trình bày chưa ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, dẫn đến vi bằng vừa
tăng số trang vừa không khoa học, tốn diện tích lưu trữ. Đồng
thời, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy
định cụ thể về chế độ lưu trữ và kinh phí lưu trữ vi bằng, Sở Tư pháp phải sử dụng
kinh phí cơ quan để thực hiện việc lưu trữ nên đã ảnh hưởng đến kinh phí hoạt động
chung của Sở.
- Thứ năm, về biên chế: Hiện nay, số lượng vi bằng
do các Văn phòng Thừa phát lại lập ngày càng nhiều, trong khi đó công chức tham
mưu quản lý về Thừa phát lại vừa thực hiện kiểm tra, đăng ký vi bằng vào sổ
đăng ký vừa kiêm nhiệm các nhiệm vụ chuyên môn khác, vì vậy quy định trong thời
hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được vi bằng, Sở Tư pháp phải
vào sổ đăng ký vi bằng Thừa phát lại (Khoản 4 Điều 39 Nghị định 08/2020/NĐ-CP)
dẫn đến công chức kiểm tra, đăng ký vào sổ và lưu trữ vi bằng sẽ không kịp tiến
độ theo quy định.
Để tiếp tục thực hiện
tốt công tác quản lý nhà nước về Thừa phát lại, Sở Tư pháp cũng đã đề ra một số giải pháp và đề xuất, kiến nghị:
- Về hoàn thiện các quy định của pháp luật: Hiện nay, các hoạt động của Thừa phát lại
ngày càng phát triển mạnh mẽ về phạm vi, số lượng vụ việc nhưng các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại
gồm có Nghị quyết số 107/NQ của Quốc hội, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP của Chính
phủ và Thông tư số 05/2020/TT-BTP hướng dẫn; trong khi đó, các văn bản điều chỉnh
ở lĩnh vực Tòa án và Thi hành án dân sự là văn bản Luật. Do đó, trong quá trình
triển khai hoạt động đã gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, để giải quyết những
bất cập này và bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của hoạt động Thừa phát lại,
đòi hỏi một hành lang pháp lý cao hơn, có tính chất nền tảng hơn, do vậy cần
thiết nên ban hành Luật về Thừa phát lại.
- Cần tăng mức chi phí tống đạt cho Thừa phát lại để
tăng cường khuyến khích việc thực hiện chuyển giao văn bản, giấy tờ, hồ sơ từ các cơ quan
Tòa án, Viện Kiểm sát, Thi hành án cho Văn phòng Thừa phát lại thực hiện tống
đạt trong tương lai, qua đó góp phần giảm bớt áp lực công việc, chia sẻ trách
nhiệm, công việc của các cơ quan tư pháp và đảm bảo thực hiện đúng chức năng,
vai trò của Thừa phát lại theo quy định. Đồng thời, kiến nghị Tòa án tối cao
cần phân khai kinh phí đủ đảm bảo cho việc thực hiện tống đạt của Tòa án các
cấp tại địa phương.
- Việc xây dựng Cơ sở dữ liệu về vi
bằng được giao cho các địa phương thực hiện nên mỗi địa phương sẽ xây dựng cơ sở
dữ liệu theo hệ thống tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật khác nhau nên sau này rất
khó khăn cho việc kết nối, chia sẻ dữ liệu về vi bằng trong phạm vi cả nước. Do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho Sở
Tư pháp giúp UBND tỉnh quản lý tốt công tác Thừa phát lại, kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng phần mềm dùng chung
để hỗ trợ, cung cấp cho các địa phương thực hiện quản lý thống nhất công tác này trên toàn quốc trong việc tiếp nhận thông tin và duyệt
nội dung Vi bằng, tài liệu chứng minh (nếu có) từ các Văn phòng Thừa phát lại
được cập nhật trên Phần mềm cơ sở dữ liệu về vi bằng, còn bản giấy Vi bằng do
các Văn phòng Thừa phát lại lưu trữ tại trụ sở của Văn phòng theo quy định.
- Kiến nghị Bộ Tư pháp tiếp tục tăng cường công tác bồi dưỡng, tập
huấn chuyên sâu nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cho công chức được giao thực hiện
nhiệm vụ này và kỹ năng hành nghề cho đội ngũ Thừa phát lại trong quá trình hành nghề.
- Về phía địa phương: Sở Tư pháp tiếp tục thực hiện bám sát các văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp trên và Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định 08/2020/NĐ-CP
của UBND tỉnh; tham mưu UBND tỉnh các văn bản quản lý nhà nước về Thừa phát lại;
thường xuyên thanh tra, kiểm
tra, theo dõi tổ chức
và hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại, các Thừa phát lại đang hoạt động hành nghề trên địa bàn tỉnh để kịp thời
phát hiện sai phạm và có biện pháp chấn chỉnh, yêu cầu
khắc phục cũng như hướng dẫn thực hiện; phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hoạt động truyền thông
về hoạt động Thừa phát lại với nội dung súc tích và dễ hiểu về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò và ý nghĩa của Thừa phát lại, nhất là hiểu đúng việc lập Vi bằng và giá trị pháp
lý của Vi bằng trong các sự kiện, giao dịch để người dân, tổ chức, doanh nghiệp hiểu biết hơn về pháp luật, đồng
thuận, ủng hộ, tin tưởng và sử dụng dịch vụ Thừa phát lại; nghiên cứu tham mưu UBND tỉnh ban hành quy
chế phối hợp trong việc chuyển giao văn bản tống đạt, việc xác minh và sử dụng
kết quả xác minh, việc tổ chức thi hành án, việc giải quyết khiếu nại trong thi
hành án./.
Phương Hà