Mua bán, chuyển nhượng đất đai thông qua Vi bằng, giá trị pháp lý như thế nào?
Mua bán, chuyển
nhượng đất đai thông qua Vi bằng, giá trị pháp lý như thế nào?
Mặc dù Sở Tư
pháp đã tuyên truyền bằng nhiều hình thức khác nhau về thẩm quyền, phạm vi và
giá trị pháp lý của vi bằng do Thừa phát lại lập. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận
người dân chưa nhận thức được giá trị pháp lý của vi bằng, còn nhầm lẫn giữa vi
bằng và các văn bản công chứng, chứng thực khác, nhất là liên quan đến việc mua
bán, chuyển nhượng đất đai. Thực tế, rất nhiều trường hợp người dân mua bán,
chuyển nhượng đất chưa có giấy chứng nhận hoặc chưa đủ điều kiện để tách thửa
và yêu cầu thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận việc cắm mốc ranh đất, hiện trạng
đất này,…
Theo quy định tại
Điều 36 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ quy định về tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại:
“1. Thừa phát lại được lập vi bằng ghi nhận các sự
kiện, hành vi có thật theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi
toàn quốc, trừ các trường hợp quy định tại Điều 37 của Nghị định này.
2. Vi bằng không
thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác.
3. Vi bằng là
nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính
theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan,
tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
4. Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ
của vi bằng, nếu thấy cần thiết, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có thể
triệu tập Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để làm rõ tính xác thực
của vi bằng. Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức”.
Đồng thời, khoản
3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hợp
đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ
trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.
Như vậy, việc lập
vi bằng ghi nhận việc cắm mốc ranh đất, hiện trạng đất chưa phải là căn cứ để
nhà nước công nhận việc chuyển quyền của người sử dụng đất, không phải là cơ sở
để cơ quan đất đai thực hiện đăng ký biến động sang tên sổ đỏ. Do đó, người dân
nên thận trọng để tránh gặp rủi ro và thiệt hại. Việc mua bán, chuyển nhượng đất
đai cần được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.
Phương Hà