Khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác soạn thảo, ban hành, tự kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác soạn thảo,
ban hành, tự kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật
Trong thời gian qua, thực hiện trách
nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong công tác kiểm tra theo thẩm quyền
đối với các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các huyện, thị xã, thành phố; Sở Tư pháp nhận thấy công tác xây dựng,
ban hành văn bản QPPL của các địa phương đã được thực hiện cơ bản bảo đảm theo
quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2020) và các Nghị định hướng dẫn thi hành: Công tác soạn thảo, thẩm định,
thẩm tra, ban hành văn bản QPPL tuân thủ trình tự, thủ tục; hầu hết các văn bản
QPPL được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung văn bản phù hợp quy định trong các
văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được, công tác xây dựng, ban hành, tự kiểm tra, xử lý văn bản QPPL ở một số địa
phương vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:
- Một số văn bản QPPL quy định thời
điểm có hiệu lực không phù hợp quy định hoặc có sai sót về căn cứ ban hành, thể
thức, kỹ thuật trình bày, cụ thể như:
+ Quy định thời điểm có hiệu lực sớm
hơn thời điểm có hiệu lực theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) hoặc không quy
định cụ thể ngày có hiệu lực của văn bản theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Nghị
định số 34/2016/NĐ-CP.
+ Văn bản được sử dụng làm căn cứ
pháp lý để ban hành không phù hợp quy định tại Điều 61 Nghị định số
34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ (còn sử dụng văn bản cá biệt hoặc
văn bản QPPL của chính cơ quan đó làm căn cứ ban hành văn bản).
+ Sai sót về thể thức, kỹ thuật trình
bày văn bản: Trình bày số thứ tự các khoản, điểm không đúng quy định tại khoản
2, điểm d và đ khoản 5 Điều 62 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (được sửa đổi bởi điểm
d khoản 1 Điều 2 Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020); phần kết thúc của
Quy định/Quy chế kèm theo có ghi chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm
quyền ký ban hành văn bản, dấu của cơ quan ban hành văn bản là không phù hợp
các mẫu số 21, 23 Phụ lục I kèm theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP…
- Công tác kiểm tra, xử lý văn bản
QPPL chưa thực hiện đúng theo quy định, như: Một số địa phương sau khi ban hành
văn bản QPPL gửi không đầy đủ và đúng thời hạn cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm
tra theo quy định tại Điều 121 và khoản 1 Điều 131 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP;
một số địa phương chưa thực hiện tốt công tác tự kiểm tra và tham mưu cấp có thẩm
quyền xử lý văn bản có sai sót được phát hiện qua việc tự kiểm tra hoặc theo kết
luận kiểm tra của cơ quan kiểm tra văn bản…
Để khắc phục có hiệu quả những tồn tại,
hạn chế nêu trên, tại Công văn số 335/STP-NV1 ngày 06/3/2023, Sở Tư pháp đã đề nghị
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố quan tâm, chỉ đạo thực hiện một số
công việc sau trong thời gian đến:
- Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu xây dựng văn bản QPPL
của HĐND, UBND các cấp ở địa phương theo Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 30/5/2022 của
Chủ tịch UBND tỉnh về nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh.
- Đối với các văn bản đã có thông báo
kết luận kiểm tra của cơ quan kiểm tra văn bản, đề nghị Ủy ban nhân dân các huyện,
thị xã, thành phố chỉ đạo Phòng Tư pháp và các cơ quan liên quan thực hiện việc
tự kiểm tra và tham mưu cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản QPPL kịp thời theo
quy định.
- Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc gửi
đầy đủ, đúng thời hạn các văn bản QPPL của địa phương mình sau khi thông qua hoặc
ban hành đến các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản theo quy định./.
Phương Đặng